I have heard that: On one occasion the Blessed One was staying among the Anguttarapans at an Anguattarapan town named Apana. Then, early in the morning, having put on his robes and carrying his outer robe & bowl, went into Apana for alms. Having wandered for alms in Apana and returning from his alms round after his meal, he went to a certain forest grove for the day's abiding. Plunging into the grove, he sat down for his day's abiding at the root of a certain tree.




Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn ở tại Anguttarapa (Ương-già Bắc Phương Thủy). Apana là một thị tứ của Anguttarapa. Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Apana để khất thực. Khất thực ở Apana xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Thế Tôn đi đến một khu rừng để trú ban ngày. Thế Tôn đi sâu vào khu rừng này, ngồi dưới một gốc cây để trú ban ngày.

 

Ven. Udayin, too, early in the morning, having put on his robes and carrying his outer robe & bowl, went into Apana for alms. Having wandered for alms in Apana and returning from his alms round after his meal, he went to that forest grove for the day's abiding. Plunging into the grove, he sat down for his day's abiding at the root of a certain tree. Then, as he was alone in seclusion, this train of thought arose in his awareness: "So many painful things has the Blessed One taken away from us! So many pleasant things has he brought us! So many unskillful qualities has the Blessed One taken away from us! So many skillful qualities has he brought us!"



Tôn giả Udayi (Ưu-đa-di) buổi sáng cũng đắp y, cầm y bát đi vào Apana để khất thực. Khất thực ở Apana xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Tôn giả đi đến một khu rừng để trú ban ngày. Tôn giả đi sâu vào khu rừng này, và ngồi dưới một gốc cây để trú ban ngày. Rồi Tôn giả Udayi, trong khi độc cư Thiền tịnh, sự suy tư sau đây đă khởi lên trong tâm trí Tôn giả: "Thế Tôn thật sự là vị đă đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đă mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đă đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đă mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta".

 

Then, in the evening, Ven. Udayin left seclusion and went to the Blessed One. On arrival, having bowed down to him, he sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One: "Just now, lord, as I was alone in seclusion, this train of thought arose in my awareness: 'So many painful things has the Blessed One taken away from us! So many pleasant things has he brought us! So many unskillful qualities has the Blessed One taken away from us! So many skillful qualities has he brought us!' For in the past, lord, we used to eat in the morning, in the evening, and in the day at the wrong time (the afternoon). Then there was the time when the Blessed One addressed the monks, saying, 'Monks, please discontinue that daytime meal at the wrong time.' 1 At the time I was upset, at the time I was sad, [thinking], 'The exquisite staple & non-staple foods that faithful householders give us during the day at the wrong time: even those the Blessed One has us abandon; even those the One Well-gone has us relinquish!' But, out of consideration for our love & respect for the Blessed One, out of consideration for shame & fear of wrongdoing, we abandoned that daytime meal at the wrong time.



Rồi Tôn giả Udayi vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Udayi bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con đang độc cư Thiền tịnh, sự suy tư sau đây đă khởi lên trong tâm trí con: "Như Lai thật sự là vị đă đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta... Như Lai thật sự là vị đă mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta". Bạch Thế Tôn, thuở trước chúng con thường ăn buổi chiều, buổi sáng, ban ngày và phi thời. Bạch Thế Tôn, thời ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và bảo: "Này các Tỷ-kheo, hăy từ bỏ ăn ban ngày phi thời". Bạch Thế Tôn, do vậy con cảm thấy thất vọng, con cảm thấy sầu muộn, nghĩ rằng: "Những món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, các tín chủ cúng dường cho chúng ta ban ngày và phi thời. Nay Thế Tôn dạy chúng ta phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng ta phải từ bỏ". Bạch Thế Tốn, giữa chúng con, những ai nh́n Thế Tôn với ḷng ái mộ, với ḷng tôn kính và với ḷng tàm quư, liền từ bỏ ăn ban ngày phi thời.

 

"So we ate both in the evening & in the morning. Then there was the time when the Blessed One addressed the monks, saying, 'Monks, please discontinue that evening meal at the wrong time.' At the time I was upset, at the time I was sad, [thinking], 'The more exquisitely prepared of our two meals: even that the Blessed One has us abandon; even that the One Well-gone has us relinquish! It has happened, lord, that a man — obtaining some good curry ingredients during the day — would say to his wife, 'Put this aside and we'll all eat it together in the evening.' All fine cooking is done in the evening, and next to none during the day. But, out of consideration for our love & respect for the Blessed One, out of consideration for shame & fear of wrongdoing, we abandoned that evening meal at the wrong time.



Rồi bạch Thế Tôn, chúng con thường ăn buổi chiều và buổi sáng. Bạch Thế Tôn, thời ấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và bảo: "Này các Tỷ-kheo, hăy từ bỏ ăn ban đêm phi thời". Bạch Thế Tôn, do vậy con cảm thấy thất vọng, con cảm thấy sầu muộn, nghĩ rằng: "Buổi ăn này gọi là có thượng vị hơn trong hai buổi ăn này của chúng ta. Thế Tôn dạy chúng ta phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng ta phải từ bỏ". Bạch Thế Tôn, thuở xưa có người được một món ăn cúng ban ngày bèn nói: "Hăy để món ăn này một bên, và ban đêm tất cả chúng ta cùng ăn với nhau". Bạch Thế Tôn, phàm mọi sự nấu nướng, tất cả đều làm ban đêm, rất ít làm ban ngày. Bạch Thế Tôn, giữa chúng con, những ai nh́n Thế Tôn với ḷng ái mộ, với ḷng tôn kính và với ḷng tàm quư, liền từ bỏ ăn ban đêm phi thời.

 

"It has happened, lord, that monks wandering for alms in the pitch dark of the night have walked into a waste-water pool, fallen into a cesspool, stumbled over a thorn patch, or stumbled over a sleeping cow. They have encountered young hooligans on the way to or from a crime. They have been sexually propositioned by women. Once I went for alms in the pitch dark of night. A woman washing a pot saw me by a lightning flash and, on seeing me, screamed out: 'I'm done for! A demon is after me!' When this was said, I said to her, 'I'm no demon, sister. I'm a monk waiting for alms.' 'Then you're a monk whose daddy's dead and whose momma's dead. Better for you, monk, that your belly be slit open with a sharp butcher's knife than this prowling for alms for your belly's sake in the pitch dark of night!" On recollecting that, lord, the thought occurred to me: 'So many painful things has the Blessed One taken away from us! So many pleasant things has he brought us! So many unskillful qualities has the Blessed One taken away from us! So many skillful qualities has he brought us!'"



Thuở trước, bạch Thế Tôn, các vị Tỷ-kheo thường đi khất thực trong đêm đen tối tăm, họ bước lầm vào vũng nước nhớp, rơi vào vũng nước nhớp, đi lầm vào hàng rào gai, đi lầm vào chỗ con ḅ cái đang ngủ, gặp các loại đạo tặc đă hành sự hay chưa hành sự, gặp các người đàn bà mời mọc một cách bất chánh. Thuở trước, bạch Thế Tôn, con đi khất thực trong đêm đen tối tăm. Một người đàn bà đang rửa chén bát, thấy con trong khi trời chớp nhoáng, liền hoảng sợ và hét lớn: "Ôi kinh khủng thay cho tôi, có con quỷ (chạy) theo tôi !" Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, con nói với người đàn bà ấy: "Này chị, không phải quỷ đâu. Đây là Tỷ-kheo đang đứng khất thực". "Cha Tỷ-kheo hăy chết đi ! Mẹ Tỷ-kheo hăy chết đi ! Này Tỷ-kheo, thật tốt hơn cho Ông nếu Ông lấy con dao sắc bén của người đồ tể cắt bụng của Ông, c̣n hơn là v́ lỗ bụng đi khất thực trong ban đêm tối tăm". Bạch Thế Tôn, khi con nhớ như vậy, con suy nghĩ như sau: "Thế Tôn thật sự là vị đă đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đă mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đă đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đă mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta".

 

"In the same way, Udayin, there are some worthless men who, when I tell them, 'Abandon this,' say: 'Why this petty, elementary thing? He's too much of a stickler, this contemplative.' They don't abandon it. They're rude to me and to the monks keen on training. For them that's a strong snare, a thick snare, a heavy snare, an unrotting snare, and a thick yoke.



– Tuy vậy, này Udayi, ở đây có một số người ngu si; khi Ta nói: "Hăy trừ bỏ việc này", liền nói như sau: "Có sá ǵ sự việc tiểu tiết, nhỏ mọn này. Sa-môn này đặt quá nặng về cấm đoán đoạn giảm". Họ không chịu từ bỏ và gây lên bất măn chống Ta và chống những Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sự việc ấy, này Udayi, đối với họ, trở thành một trói buộc mạnh mẽ, một trói buộc vững chắc, một trói buộc kiên cường, một trói buộc không mục nát, một khúc gỗ to lớn.

 

" Suppose a quail were snared by a rotting creeper, by which it could expect injury, capture, or death, and someone were to say, 'This rotting creeper by which this quail is snared, and by which she could expect injury, capture, or death, is for her a weak snare, a feeble snare, a rotting snare, an insubstantial snare.' Would the person speaking that way be speaking rightly?"



Ví như, này Udayi, có con chim cáy mái nhỏ, bị tấm lưới bằng dây leo trói chặt, ở đây con chim có thể bị hại, hay bị bắt nhốt, hay bị chết. Này Udayi, nếu có ai nói như sau: "Con chim cáy mái nhỏ ấy, bị tấm lưới làm bằng dây leo trói chặt, ở đây, con chim có thể bị sát hại, hay bị bắt nhốt, hay bị chết. Tuy vậy đối với con chim kia, lưới ấy không có chắc mạnh, lưới ấy yếu ớt, lưới ấy bị mục nát, lưới ấy không có cứng chắc". Này Udayi, ai nói như vậy có phải nói một cách chơn chánh không ?

 

"No, lord. That rotting creeper,creeper by which this quail is snared, and by which she could expect injury, capture, or death, is for her a strong snare, a thick snare, a heavy snare, an unrotting snare, and a thick yoke.



– Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, con chim cáy mái nhỏ ấy bị tấm lưới làm bằng dây leo trói chặt, ở đấy con chim có thể bị sát hại, hay bị bắt nhốt, hay bị chết. Đối với con chim kia, lưới ấy là mạnh mẽ, lưới ấy là vững chắc, lưới ấy là kiên cường, lưới ấy không mục nát, một khúc gỗ to lớn.

 

"In the same way, Udayin, there are some worthless men who, when I tell them, 'Abandon this,' say: 'Why this petty, elementary thing? He's too much of a stickler, this contemplative.' They don't abandon it. They're rude to me and to the monks keen on training. For them that's a strong snare, a thick snare, a heavy snare, an unrotting snare, and a thick yoke.



– Cũng vậy, này Udayi, ở đây, có một số người ngu si, khi được Ta nói: "Hăy từ bỏ việc này", liền nói như sau: "Có sá ǵ việc tiểu tiết, nhỏ mọn này ! Vị Sa-môn này đặt quá nặng về cấm đoán, đoạn giảm", và họ không chịu từ bỏ và gây lên bất măn chống Ta và chống những Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sự việc này, này Udayi, đối với họ trở thành một trói buộc mạnh mẽ, một trói buộc vững chắc, một trói buộc kiên cường, một trói buộc không mục nát, một khúc gỗ to lớn.

 

"Now there are some clansmen who, when I tell them, 'Abandon this,' say: 'Why does the Blessed One have us abandon this? Why does the One Well-gone have us relinquish this petty, elementary thing?' But they abandon it and are not rude to me or to the monks keen on training. Having abandoned it, they live unconcerned, unruffled, their wants satisfied, with their mind like a wild deer. For them that's a weak snare, a feeble snare, a rotting snare, an insubstantial snare.



Nhưng này Udayi, một số Thiện gia nam tử, khi được Ta nói: "Hăy từ bỏ sự việc này", liền nói như sau: "Có sá ǵ sự từ bỏ việc tiểu tiết, nhỏ mọn này mà Thế Tôn dạy chúng con phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ, dạy chúng con phải từ bỏ !". Họ từ bỏ sự việc ấy, và không gây lên bất măn chống Ta và chống các Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sau khi từ bỏ việc ấy, họ sống ít lăng xăng, lắng dịu, tùy thuộc những người khác (bố thí), sống với một tâm như con thú rừng. Này Udayi, như vậy đối với các vị kia, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc.

 

" Suppose a royal elephant — immense, pedigreed, accustomed to battles, its tusks like chariot poles — were snared with thick leather snares, but by twisting its body a bit it could break & burst those snares and go off wherever it liked. And suppose someone were to say, 'Those thick leather snares by which the royal elephant— immense, pedigreed, accustomed to battles, its tusks like chariot poles — was snared, but which — by twisting its body a bit — it could break & burst and go off wherever it liked: for him they were a strong snare, a thick snare, a heavy snare, an unrotting snare, and a thick yoke.' Would the person speaking that way be speaking rightly?'



Ví như, này Udayi, một con voi của vua, có ngà dài như cán cày, to lớn, thuộc loại giống tốt, lấy băi chiến trường làm nhà, nếu bị trói buộc bởi sự trói buộc bằng da nịt vững chắc, chỉ cần chuyển thân một cách dễ dàng, sau khi cắt đứt, bứt đứt những trói buộc ấy, có thể muốn đi chỗ nào nó muốn. Này Udayi, nếu có ai nói như sau: "Con voi của vua có ngà dài như một cán cày ấy, to lớn, thuộc loại giống tốt, lấy băi chiến trường làm nhà, nếu bị trói buộc bởi sự trói buộc bằng da nịt vững chắc, chỉ cần chuyển thân một cách dễ dàng, sau khi cắt đứt, bứt đứt những trói buộc ấy, có thể muốn đi chỗ nào nó muốn. Tuy vậy đối với con voi kia, sự trói buộc ấy vững chắc, sự trói buộc ấy kiên cường, sự trói buộc ấy không mục nát, một khúc gỗ to lớn". Này Udayi, ai nói như vậy có phải nói một cách chơn chánh không ?

 

"No, lord. Those thick leather snares snares by which the royal elephant, — immense, pedigreed, accustomed to battles, its tusks like chariot poles — was snared, but which — by twisting its body a bit — it could break & burst and go off wherever it liked were for him a weak snare, a feeble snare, a rotting snare, an insubstantial snare."



– Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, con voi của vua có ngà dài như một cán cày ấy, to lớn, thuộc loại giống tốt, lấy băi chiến trường làm nhà, nếu bị trói buộc bởi sự trói buộc bằng da nịt vững chắc, chỉ cần chuyển thân một cách dễ dàng, sau khi cắt đứt, bứt đứt những trói buộc ấy, có thể muốn đi chỗ nào nó muốn. Đối với con voi kia, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có kiên cường.

 

"In the same way, Udayin, there are some clansmen who, when I tell them, 'Abandon this,' say: 'Why does the Blessed One have us abandon this? Why does the One Well-gone have us relinquish this petty, elementary thing?' But they abandon it and are not rude to me or to the monks keen on training. Having abandoned it, they live unconcerned, unruffled, their wants satisfied, with their mind like a wild deer. For them that's a weak snare, a feeble snare, a rotting snare, an insubstantial snare.



– Cũng vậy, này Udayi, ở đây có một số Thiện gia nam tử khi được Ta nói: "Hăy từ bỏ sự việc này", liền nói như sau: "Có sá chi việc tiểu tiết, nhỏ mọn này mà Thế Tôn dạy chúng con phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng con phải từ bỏ ! " Họ từ bỏ việc ấy, và không gây lên bất măn chống Ta và chống các Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sau khi từ bỏ việc ấy, họ sống ít lăng xăng, lắng dịu, tùy thuộc những người khác (bố thí), sống với một tâm như con thú rừng. Này Udayi, như vậy đối với các vị kia sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc.

 

" Suppose there were a poor person, penniless & indigent, with a single little shack — dilapidated, open to the crows, not the best sort; and a single bed — dilapidated, not the best sort; and a single pot of rice & gourd seeds — not the best sort; and a single wife — not the best sort. He would go to a park and see a monk — his hands & feet washed after a delightful meal, sitting in the cool shade, committed to the heightened mind. The thought would occur to him: 'How happy the contemplative state! How free of disease the contemplative state! O that I — shaving off my hair & beard and donning the ochre robe — might go forth from the household life into homelessness!' But being unable to abandon his single little shack — dilapidated, open to the crows, not the best sort; his single bed — dilapidated, not the best sort; his single pot of rice & gourd seeds — not the best sort; and his single wife — not the best sort — he wouldn't be able to shave off his hair & beard, to don the ochre robe, or to go forth from the household life into homelessness. And suppose someone were to say, 'That single little shack... that single bed... that single pot... and that single wife — not the best sort — by which that man was snared, which he was unable to abandon, and because of which he couldn't shave off his hair & beard, don the ochre robe, and go forth from the household life into homelessness: for him they were a weak snare, a feeble snare, a rotting snare, an insubstantial snare.' Would the person speaking that way be speaking rightly?"



Ví như, này Udayi, một người nghèo khổ, không có vật sở hữu, khốn cùng, có một cḥi ở hư nát, mở toang cho quạ, không đẹp mắt chút nào, có một giường nằm hư nát, không đẹp mắt chút nào, các loại gạo lúa cất chứa trong một cái chum không đẹp mắt chút nào, và một bà vợ không đẹp mắt chút nào. Người ấy thấy một Tỷ-kheo trong tịnh xá, tay chân lau rửa sạch sẽ, sau khi ăn buổi cơm ngon lành, đang ngồi trong bóng mát, hướng về tăng thượng tâm. Người ấy suy nghĩ: "An lạc thay, Sa-môn hạnh ! Vô bệnh thay, Sa-môn hạnh ! Vậy sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, ta hăy xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Nhưng người ấy không có thể từ bỏ cái cḥi ở hư nát, mở toang cho quạ, không đẹp mắt chút nào, không có thể từ bỏ cái giường nằm hư nát, không đẹp mắt chút nào, không có thể từ bỏ các loại gạo lúa cất chứa trong một cái chum không đẹp mắt chút nào, không có thể từ bỏ bà vợ không đẹp mắt chút nào, để có thể sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Này Udayi, nếu có ai nói như sau: "Người kia, bị trói buộc bởi những trói buộc ấy không có thể từ bỏ cái cḥi ở hư nát... không có thể từ bỏ bà vợ không đẹp mắt chút nào để có thể sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Đối với người kia, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc", thời này Udayi, ai nói như vậy có phải nói một cách chân chánh không ?

 

"No, lord. That single hut dilapidated, open to the crows, not the best sort; that single bed dilapidated, not the best sort; that single potof rice & gourd seeds — not the best sort; that single wife not the best sort. he wouldn't be able to shave off his hair & beard, to don the ochre robe, or to go forth from the household life into homelessness. They were for that man a strong snare, a thick snare, a heavy snare, an unrotting snare, and a thick yoke."



– Bạch Thế Tôn, không. Người kia bị trói buộc bởi những trói buộc ấy không thể từ bỏ cḥi ở hư nát, mở toang cho quạ, không đẹp mắt chút nào, không thể từ bỏ giường nằm hư nát không đẹp mắt chút nào, không thể từ bỏ các loại gạo lúa cất chứa trong một cái chum không đẹp mắt chút nào, không thể từ bỏ bà vợ không đẹp mắt chút nào, để có thể, sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Đối với người kia, sự trói buộc ấy vững chắc, sự trói buộc ấy kiên cường, sự trói buộc ấy không mục nát, một khúc gỗ to lớn.

 

"In the same way, Udayin, there are some worthless men who, when I tell them, 'Abandon this,' say: 'Why this petty, elementary thing? He's too much of a stickler, this contemplative.' They don't abandon it. They're rude to me and to the monks keen on training. For them that's a strong snare, a thick snare, a heavy snare, an unrotting snare, and a thick yoke.



– Cũng vậy, này Udayi, ở đây, có một số người ngu si khi được Ta nói ra: "Hăy từ bỏ việc này", liền nói như sau: "Có sá ǵ sự việc tiểu tiết, nhỏ mọn này. Vị Sa-môn này đặt quá nặng về cấm đoán, đoạn giảm ! " Và họ không chịu từ bỏ và gây lên bất măn chống Ta và chống những Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sự việc này, này Udayi, đối với họ, trở thành một trói buộc mạnh mẽ, một trói buộc vững chắc, một trói buộc kiên cường, một trói buộc không mục nát, một khúc gỗ to lớn.

 

"Now suppose, Udayin, that there were a householder or householder's son — rich, prosperous, & wealthy — with vast amounts of gold ingots, vast amounts of grain, a vast number of fields, a vast amount of land, a vast number of wives, and a vast number of male & female slaves. He would go to a park and see a monk — his hands & feet washed after a delightful meal, sitting in the cool shade, committed to the heightened mind. The thought would occur to him: 'How happy the contemplative state! How free of disease the contemplative state! O that I — shaving off my hair & beard and donning the ochre robe — might go forth from the household life into homelessness!' And being able to abandon his vast amounts of gold ingots, his vast amounts of grain, his vast number of fields, his vast amount of land, his vast number of wives, and his vast number of male & female slaves, he would be able to shave off his hair & beard, to don the ochre robe, and to go forth from the household life into homelessness. Now suppose someone were to say, 'Those vast amounts of gold ingots, his vast amounts of grain, his vast number of fields, his vast amount of land, his vast number of wives, and a vast number of male & female slaves by which that householder or householder's son was snared but which he was able to abandon so that he could shave off his hair & beard, don the ochre robe, and go forth from the household life into homelessness: for him they were a strong snare, a thick snare, a heavy snare, an unrotting snare, and a thick yoke.' Would the person speaking that way be speaking rightly?"



Ví như, này Udayi, một gia chủ hay con người gia chủ, giàu có, tài sản lớn, tiền của lớn, vô số vàng bạc chất đống, vô số gạo thóc chất đống, vô số ruộng nương chất đống, vô số đất đai chất đống, vô số thê thiếp chất đống, vô số đầy tớ nam chất đống, vô số nữ tỳ chất đống. Vị này thấy một Tỷ-kheo trong một tinh xá, tay chân lau rửa sạch sẽ, sau khi ăn bữa cơm ngon lành, đang ngồi trong bóng mát, hướng về tăng thượng tâm. Vị này suy nghĩ: "An lạc thay, Sa-môn hạnh ! Vô bệnh thay, Sa-môn hạnh ! Vậy sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, ta hăy xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Vị này có thể từ bỏ vô số vàng bạc chất đống, có thể từ bỏ vô số gạo thóc chất đống, có thể từ bỏ vô số ruộng nương chất đống, có thể từ bỏ vô số đất đai chất đống, có thể từ bỏ vô số thê thiếp chất đống, có thể từ bỏ vô số đầy tớ nam chất đống, có thể từ bỏ vô số nữ tỳ chất đống. Này Udayi, nếu có ai nói như sau: "Người gia chủ hay con người gia chủ kia, bị trói buộc bởi những trói buộc ấy, có thể từ bỏ vô số vàng bạc chất đống... có thể từ bỏ vô số nữ tỳ chất đống để có thể sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Đối với người kia, sự trói buộc ấy vững chắc, sự trói buộc ấy kiên cường, sự trói buộc ấy không mục nát, một khúc gỗ to lớn". Này Udayi, ai nói như vậy, có phải nói một cách chơn chánh không ?

 

"No, lord. Those vast amounts of gold ingots... were for him a weak snare, a feeble snare, a rotting snare, an insubstantial snare.'



– Bạch Thế Tôn, không. Người kia bị trói buộc bởi những trói buộc ấy có thể từ bỏ vô số vàng bạc chất đống, có thể từ bỏ vô số gạo thóc chất đống, có thể từ bỏ vô số ruộng nương chất đống, có thể từ bỏ vô số đất đai chất đống, có thể từ bỏ vô số thê thiếp chất đống, có thể từ bỏ vô số đầy tớ nam chất đống, có thể từ bỏ vô số nữ tỳ chất đống, để có thể, sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Đối với người kia, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc.

 

"In the same way, Udayin, there are some clansmen who, when I tell them, 'Abandon this,' say: 'Why does the Blessed One have us abandon this? Why does the One Well-gone have us relinquish this petty, elementary thing?' But they abandon it and are not rude to me or to the monks keen on training. Having abandoned it, they live unconcerned, unruffled, their wants satisfied, with their mind like a wild deer. For them that's a weak snare, a feeble snare, a rotting snare, an insubstantial snare.



– Cũng vậy, này Udayi, ở đây, có một số Thiện gia nam tử, khi được Ta nói: "Hăy từ bỏ việc này", liền nói như sau: "Có sá chi sự việc tiểu tiết, nhỏ mọn này mà Thế Tôn dạy chúng con phải đoạn trừ, bậc Thiện Thệ dạy chúng con phải từ bỏ ! " Họ từ bỏ sự việc ấy, và không gây lên bất măn chống Ta và chống các Tỷ-kheo muốn (thực hành) học giới. Sau khi từ bỏ sự việc ấy, họ sống ít lăng xăng, lắng dịu, tùy thuộc những người khác (bố thí), sống với một tâm như con thú rừng. Này Udayi, như vậy đối với họ, sự trói buộc ấy không có chắc mạnh, sự trói buộc ấy yếu ớt, sự trói buộc ấy bị mục nát, sự trói buộc ấy không có vững chắc.

 

"Udayin, there are these four types of people to be found existing in the world. Which four? There is the case where a certain person is practicing for the abandoning & relinquishing of acquisitions. As he is practicing for the abandoning & relinquishing of acquisitions, memories & resolves associated with acquisitions assail him. He acquiesces to them. He does not abandon them, destroy them, dispel them, or wipe them out of existence. I tell you, Udayin, that this sort of person is fettered, not unfettered. Why is that? Because I have known the diversity of faculties with regard to this type of person.



Này Udayi, có bốn hạng người có mặt trên đời. Thế nào là bốn ? Ở đây, này Udayi, có người sống, hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y. Nhưng trong khi vị này sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y, những tư niệm, tư duy liên hệ đến sanh y hiện hành khởi lên. Vị này chấp nhận chúng, không đoạn trừ chúng, không từ bỏ chúng, không chấm dứt chúng, không tiêu diệt chúng. Này Udayi, Ta nói: "Người này bị trói buộc, không phải không bị trói buộc". V́ sao vậy ? Này Udayi, sự sai biệt về căn tánh trong người này đă được Ta biết rơ.

 

"Then there is the case where a certain person practicing for the abandoning & relinquishing of acquisitions. As he is practicing for the abandoning & relinquishing of acquisitions, memories & resolves associated with acquisitions assail him. He does not acquiesce to them. He abandons them, destroys them, dispels them, & wipes them out of existence. I tell you, Udayin, that this sort of person is fettered, not unfettered. Why is that? Because I have known the diversity of faculties with regard to this type of person.



Nhưng ở đây, này Udayi, có người sống, hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y. Nhưng trong khi vị này sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y, những tư niệm, tư duy liên hệ đến sanh y hiện hành khởi lên. Nhưng vị này không chấp nhận chúng, đoạn trừ chúng, từ bỏ chúng, chấm dứt chúng, tiêu diệt chúng, Này Udayi, Ta nói: "Người này bị trói buộc, không phải không trói buộc". V́ sao vậy? Này Udayi, sự sai biệt về căn tánh trong người này đă được Ta biết rơ".

 

"Then there is the case where a certain person is practicing for the abandoning & relinquishing of acquisitions. As he is practicing for the abandoning & relinquishing of acquisitions, then — from time to time, owing to lapses in mindfulness — he is assailed by memories & resolves associated with acquisitions. Slow is the arising of his mindfulness, but then he quickly abandons [those memories & resolves], destroys them, dispels them, & wipes them out of existence. Just as when two or three drops of water fall onto an iron pan heated all day: Slow is the falling of the drops of water, but they quickly vanish & disappear. In the same way, there is the case where a certain person is practicing for the abandoning & relinquishing of acquisitions. As he is practicing for the abandoning & relinquishing of acquisitions, then — from time to time, owing to lapses in mindfulness — he is assailed by memories & resolves associated with acquisitions. Slow is the arising of his mindfulness, but then he quickly abandons [those memories & resolves], destroys them, dispels them, & wipes them out of existence. I tell you, Udayin, that this sort of person is fettered, not unfettered. Why is that? Because I have known the diversity of faculties with regard to this type of person.



Nhưng ở đây, này Udayi, có người sống, hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y. Nhưng trong khi vị này sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y, các tư niệm điên đảo, các tư niệm, tư duy liên hệ đến sanh y, tùy lúc tùy thời hiện hành khởi lên. Này Udayi, niệm khởi lên chậm chạp và vị này đoạn trừ niệm ấy một cách mau chóng, từ bỏ, chấm dứt, tiêu diệt (niệm ấy). Này Udayi, ví như một người nhỏ hai hay ba giọt nước vào một ấm nước đun sôi cả ngày. Này Udayi giọt nước rơi một cách chậm chạp như bị tiêu diệt, tiêu mất một cách mau chóng. Cũng vậy, này Udayi, có người sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y. Nhưng trong khi vị này sống hướng đến sự đoạn trừ sanh y, sự từ bỏ sanh y, các tư niệm điên đảo, các tư niệm, tư duy liên hệ đến sanh y tùy lúc, tùy thời, hiện hành khởi lên. Này Udayi, niệm khởi lên chậm chạp và vị này đoạn trừ niệm ấy một cách mau chóng, từ bỏ, chấm dứt, tiêu diệt (niệm ấy). Này Udayi, Ta nói: "Người này cũng bị trói buộc, không phải không bị trói buộc". V́ sao vậy ? Này Udayi, sự sai biệt về căn tánh trong người này đă được Ta biết rơ.

 

"Then there is the case where a certain person, realizing that acquisitions are the root of suffering & stress, is without acquisitions, released in the ending of acquisitions. I tell you, Udayin, that this sort of person is unfettered, not fettered. Why is that? Because I have known the diversity of faculties with regard to this type of person.



Nhưng ở đây, này Udayi, có người nghĩ rằng: "Sanh y là nguồn gốc của đau khổ", sau khi biết như vậy, vị ấy thành vô sanh y, giải thoát với sự đoạn diệt sanh y. Này Udayi, Ta nói: "Người này không bị trói buộc, không phải bị trói buộc". V́ sao vậy? Này Udayi, sự sai biệt về căn tánh trong người này đă được Ta biết rơ.

 

"There are these four types of people to be found existing in the world.



Này Udayi, có bốn hạng người có mặt trên đời.

 

"And, Udayin, there are these five strings of sensuality. Which five? Forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Sounds cognizable via the ear... Aromas cognizable via the nose... Flavors cognizable via the tongue... Tactile sensations cognizable via the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. These are the five strings of sensuality. Now, any pleasure & happiness that arises dependent on these five strings of sensuality is called sensual pleasure, a filthy pleasure, a run-of-the-mill pleasure, an ignoble pleasure. And of this pleasure I say that it is not to be cultivated, not to be developed, not to be pursued, that it is to be feared.



Này Udayi, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm ? Sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư, kích thích ḷng dục, hấp dẫn. Tiếng do tai nhận thức,... hương do mũi nhận thức,... vị do lưỡi nhận thức,... xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ư, kích thích ḷng dục, hấp dẫn. Những pháp này, này Udayi, là năm dục trưởng dưỡng. Này Udayi, phàm có lạc ǵ, hỷ ǵ khởi lên, do duyên năm dục trưởng dưỡng này, lạc hỷ ấy được gọi là dục lạc, ô uế lạc, phàm phu lạc, phi Thánh lạc, không nên thực hiện, không nên tu tập, không nên làm cho sung măn. Ta nói rằng lạc ấy đáng phải sợ hăi.

 

"Now, there is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. With the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of concentration, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. With the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. This is called renunciation-pleasure, seclusion-pleasure, calm-pleasure, self-awakening-pleasure. And of this pleasure I say that it is to be cultivated, to be developed, to be pursued, that it is not to be feared.



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhứt tâm,... (như trên)... Thiền thứ ba... chứng và trú Thiền thứ tư. Như vậy được gọi là yếm ly lạc, độc trú lạc, tịch tịnh lạc, chánh giác lạc, cần phải thực hiện, cần phải tu tập, cần làm cho sung măn. Ta nói rằng lạc ấy không đáng sợ hăi.

 

"Now, there is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. That, I tell you, comes under the perturbable. And what comes under the perturbable there? The directed thoughts & evaluations that haven't ceased there: that's what comes under the perturbable there.



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất. Thiền này, này Udayi, Ta nói rằng ở trong t́nh trạng dao động. Và ở đây, cái ǵ dao động ? Ở đây, chính là tầm tứ chưa đoạn diệt, chính tầm tứ này ở trong t́nh trạng dao động

 

"There is the case where a monk, with the stilling of directed thought & evaluation, enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of concentration, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. That, I tell you, comes under the perturbable. And what comes under the perturbable there? The rapture-pleasure that hasn't ceased there: that's what comes under the perturbable there.



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai. Các Thiền này, này Udayi, Ta nói rằng ở trong t́nh trạng dao động. Và ở đây, cái ǵ dao động ? Ở đây chính là hỷ lạc chưa được đoạn diệt, chính hỷ lạc này ở trong t́nh trạng dao động.

 

"There is the case where a monk, with the fading of rapture, remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' That, I tell you, comes under the perturbable. And what comes under the perturbable there? The equanimity-pleasure that hasn't ceased there: that's what comes under the perturbable there.



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Thiền này, này Udayi, Ta nói ở trong t́nh trạng dao động ? Và ở đây cái ǵ dao động ? Ở đây, chính là xả lạc chưa được đoạn diệt, chính xả lạc này ở trong t́nh trạng dao động.

 

"There is the case where a monk, with the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. Now that, I tell you, comes under the imperturbable.2



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo xả lạc và xả, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư. Thiền này, này Udayi, Ta nói là không ở trong t́nh trạng dao động.

 

"Now there is the case where a monk,quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. That, I tell you, isn't enough. Abandon it, I tell you. Transcend it, I tell you. And what is its transcending?



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Thiền này, này Udayi, Ta nói: "Chưa được hoàn toàn", Ta nói: "Hăy từ bỏ đi", Ta nói: "Hăy vượt qua đi" và này Udayi, vị ấy cần vượt qua cái ǵ ?

 

"There is the case where a monk, with the stilling of directed thought & evaluation, enters & remains in the second jhana, rapture & pleasure born of concentration, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. That is its transcending. But that, too, I tell you, isn't enough. Abandon it, I tell you. Transcend it, I tell you. And what is its transcending?



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm, đây là điều vị ấy cần vượt qua. Thiền này, này Udayi, Ta nói: "Chưa được hoàn toàn", Ta nói: "Hăy từ bỏ đi", Ta nói: "Hăy vượt qua đi". Và này, Udayi, vị ấy cần vượt qua cái ǵ ?

 

"There is the case where a monk, with the fading of rapture, remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding. That is its transcending. But that, too, I tell you, isn't enough. Abandon it, I tell you. Transcend it, I tell you. And what is its transcending?



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba, đây là điều vị ấy cần vượt qua. Thiền này, này Udayi, Ta nói: "Chưa được hoàn toàn, Ta nói: "Hăy từ bỏ đi", Ta nói: "Hăy vượt qua đi". Và này Udayi, vị ấy cần vượt qua cái ǵ ?

 

"There is the case where a monk...enters & remains in the fourth jhana, purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. That is its transcending. But that, too, I tell you, isn't enough. Abandon it, I tell you. Transcend it, I tell you. And what is its transcending?



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Đây là điều vị ấy cần phải vượt qua. Thiền này, này Udayi, Ta nói: "Chưa được hoàn toàn", Ta nói: "Hăy từ bỏ đi", Ta nói: "Hăy vượt qua đi" Và này Udayi, vị ấy cần phải vượt qua cái ǵ ?

 

"Then there is the case where a monk, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,' enters & remains in the dimension of the infinitude of space. That is its transcending. But that, too, I tell you, isn't enough. Abandon it, I tell you. Transcend it, I tell you. And what is its transcending?



Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ư đối với di tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Đây là điều vị ấy cần phải vượt qua. Thiền này, này Udayi, Ta nói: "Chưa được hoàn toàn", Ta nói: "Hăy từ bỏ đi", Ta nói: "Hăy vượt qua đi". Và này Udayi, vị ấy cần vượt qua cái ǵ ?

 

"Then there is the case where a monk, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' enters & remains in the dimension of the infinitude of consciousness. That is its transcending. But that, too, I tell you, isn't enough. Abandon it, I tell you. Transcend it, I tell you. And what is its transcending?



Và này Udayi, Tỷ-kheo vượt lên mọi Hư không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Đây là điều vị ấy cần phải vượt qua. Thiền này, này Udayi, Ta nói: "Chưa được hoàn toàn", Ta nói: "Hăy từ bỏ đi", Ta nói: "Hăy vượt qua đi". Và này Udayi, vị ấy cần vượt qua cái ǵ ?

 

"Then there is the case where a monk, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' enters & remains in the dimension of nothingness. That is its transcending. But that, too, I tell you, isn't enough. Abandon it, I tell you. Transcend it, I tell you. And what is its transcending?



Và này Udayi, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Đây là điều vị ấy cần phải vượt qua, Thiền này, này Udayi, Ta nói: "Chưa được hoàn toàn", Ta nói: "Hăy từ bỏ đi", Ta nói: "Hăy vượt qua đi". Và này Udayi, vị ấy cần vượt qua cái ǵ ?

 

"Then there is the case where a monk, with the complete transcending of the dimension of nothingness, enters & remains in the dimension of neither perception nor non-perception. That is its transcending. But that, too, I tell you, isn't enough. Abandon it, I tell you. Transcend it, I tell you. And what is its transcending?



Và này Udayi, Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đây là điều vị ấy cần phải vượt qua. Thiền này, này Udayi, Ta nói: "Chưa được hoàn toàn", Ta nói: "Hăy từ bỏ đi", Ta nói: "Hăy vượt qua đi". Và này Udayi, vị ấy cần vượt qua cái ǵ ?

 

"There is the case where a monk, with the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, enters & remains in the cessation of perception & feeling. That is its transcending.



Và này Udayi, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng. Đây là điều vị ấy cần phải vượt qua.

 

"Thus, Udayin, I speak even of the abandoning of the dimension of neither perception nor non-perception. Do you see any fetter, large or small, of whose abandoning I don't speak?"



Chính v́ (định) này, này Udayi, mà Ta nói sự đoạn diệt của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Này Udayi, Ông có thấy chăng, có kiết sử ǵ, nhỏ hay lớn mà Ta chưa nói đến sự đoạn diệt ?

 

"No, lord."



– Bạch Thế Tôn, không.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, Ven. Udayin delighted in the Blessed One's words.



Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Udayi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn giảng.

 

1. Ven. Udayin's account here bears no relation to the origin story to Pacittiya 37, the rule that forbids monks from eating in the wrong time. For some reason, the Commentary does not explain the discrepancy. Perhaps the events reported here occurred before the incident, reported in the origin story, that convinced the Buddha that a training rule had to be formulated to deal with this kind of behavior. In other words, he started out by saying please; when that wasn't effective, he laid down the training rule.

2. See the note to MN 106.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |